Nguy cơ đột quỵ tăng ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm mặc dù đã có hướng dẫn

Nguy cơ đột quỵ tăng ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm mặc dù đã có hướng dẫn

Tỷ lệ đột quỵ tiếp tục gia tăng ở người lớn và trẻ em mắc bệnh hồng cầu hình liềm (SCD) mặc dù Thử nghiệm phòng ngừa đột quỵ ở bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (STOP) đã thiết lập các tiêu chuẩn chăm sóc như truyền máu và xét nghiệm để đo lưu lượng máu trong não cho những người được coi là có nguy cơ cao, theo một nghiên cứu được công bố hôm nay trên tạp chí Blood.

Những người mắc bệnh SCD, rối loạn hồng cầu di truyền phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, đặc biệt dễ bị các biến cố mạch máu não (CVE). Điều này bao gồm đột quỵ do thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết, khi mạch máu dẫn đến não bị cục máu đông hoặc vỡ chặn, và các cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA), khi cục máu đông tạm thời chặn mạch máu dẫn đến não nhưng không gây ra tổn thương lâu dài.

 

STOP, một thử nghiệm lâm sàng mang tính bước ngoặt được công bố vào năm 1998, đã chứng minh rằng truyền hồng cầu mãn tính có hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc các biến cố mạch máu não (CVE) - chẳng hạn như đột quỵ - ở trẻ em có nguy cơ cao mắc SCD được xác định bằng lưu lượng máu bất thường được đo bằng xét nghiệm Doppler xuyên sọ (TCD), một loại siêu âm não.

 

Trong một nghiên cứu thực tế dựa trên dân số, Tiến sĩ Wun và nhóm của ông phát hiện rằng nguy cơ đột quỵ tăng theo tuổi tác, tăng gấp đôi sau mỗi 20 tuổi.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Sử dụng khoa cấp cứu của California (2005 – 2019) và Dữ liệu xuất viện của bệnh nhân (1991 – 2019) để xác định 7.636 bệnh nhân được chẩn đoán mắc SCD. Trong số những bệnh nhân này, 733 (9,6%) đã trải qua ít nhất một CVE, được định nghĩa là đột quỵ do thiếu máu cục bộ, đột quỵ xuất huyết hoặc TIA, với tỷ lệ mắc lần lượt là 451 (5,9%), 227 (3%) và 205 (2,7%). CVE phổ biến hơn ở phụ nữ và bệnh nhân nhập viện ba lần trở lên mỗi năm.

Tỷ lệ đột quỵ xuất huyết tích lũy tăng gấp 13 lần từ 20 tuổi đến 60 tuổi. Ngoài ra, mặc dù CVE giảm trong hai năm sau khi công bố nghiên cứu STOP, tỷ lệ CVE cao nhất đã xảy ra ở tất cả các nhóm tuổi trong thập kỷ gần đây nhất, 2010 – 2019.

"Ngay cả ở trẻ em, những người có thể nhận được sự chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân SCD ở quốc gia này, những xu hướng này lại trái ngược với những gì chúng ta mong đợi", Tiến sĩ Wun cho biết. "Dựa trên những kết quả này, có vẻ như các hướng dẫn STOP chưa được thực hiện hiệu quả".

Tiến sĩ Wun và nhóm của ông đưa ra giả thuyết rằng sự gia tăng đột quỵ sau STOP có thể là do việc tuân thủ các hướng dẫn sàng lọc TCD giảm, công nghệ chẩn đoán đột quỵ do thiếu máu cục bộ được cải thiện, tỷ lệ điều trị truyền máu thấp hoặc sử dụng ít hydroxyurea, một loại thuốc thường được sử dụng để làm giảm khả năng các tế bào máu phát triển thành hình liềm. Các nhà nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi đối với đột quỵ và phát hiện ra rằng các yếu tố làm tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ bao gồm nhập viện thường xuyên, huyết áp cao, cholesterol cao và TIA trước đó. Tuy nhiên, những bệnh nhân biểu hiện các yếu tố nguy cơ như hội chứng ngực cấp tính, suy gan và đột quỵ do thiếu máu cục bộ trước đó có nhiều khả năng bị đột quỵ xuất huyết hơn.

Dữ liệu cập nhật này về các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi của đột quỵ "nhấn mạnh nhu cầu chú ý đến việc sàng lọc cholesterol cao, huyết áp cao và các yếu tố nguy cơ khác ở người lớn", Tiến sĩ Olubusola Oluwole, phó giáo sư tại Đại học Pittsburgh và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho biết.

"Các bước phòng ngừa mà chúng ta biết giúp ngăn ngừa đột quỵ ở dân số nói chung cũng quan trọng đối với những người mắc SCD", Tiến sĩ Wun nói thêm, đặc biệt là khi những người mắc SCD sống lâu hơn và nguy cơ đột quỵ của họ tăng lên.

 

Nghiên cứu có một số hạn chế, bao gồm thiếu dữ liệu đáng tin cậy về việc sử dụng thuốc lá, làm tăng nguy cơ đột quỵ và kiểu gen SCD. Ngoài ra, các tác giả không có quyền truy cập vào các báo cáo hình ảnh và không thể xác nhận chẩn đoán đột quỵ bằng chụp X quang. Hơn nữa, tỷ lệ CVE ở những bệnh nhân ở California có thể bị đánh giá thấp nếu bệnh nhân bị đột quỵ bên ngoài tiểu bang, tử vong do đột quỵ trước khi nhập viện hoặc nếu các triệu chứng TIA được kiểm soát tại nhà.

Các nhà nghiên cứu hy vọng nghiên cứu này sẽ thúc đẩy nhiều nghiên cứu can thiệp và triển vọng hơn về đột quỵ và SCD ở người lớn.

Nguồn: New medical life scicences| American Society of Hematology|20Sep2024

Đường dẫn: Xem tại đây

0 Comments

Leave a comment

Đăng ký để nhận các thông tin mới nhất.

Chúng tôi sẽ không gửi thư rác đến bạn

Follow on Facebook
Follow on Twitter