Tiềm năng của huyết tương phục hồi COVID-19 cho các kháng thể đơn dòng trong tương lai chống lại tình trạng viêm nhiễm SARS-CoV-2 nghiêm trọng

Tiềm năng của huyết tương phục hồi COVID-19 cho các kháng thể đơn dòng trong tương lai chống lại tình trạng viêm nhiễm SARS-CoV-2 nghiêm trọng

Trong một nghiên cứu gần đây được đăng lên máy chủ in sẵn medRxiv, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng phương pháp điều trị huyết tương đang hồi phục có hiệu quả nhất trong việc điều trị bệnh nhân mắc bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) nhập viện có chức năng kháng thể SARS-CoV-2 kém trong hội chứng hô hấp cấp tính trầm trọng trước đó
COVID-19 và ĐCSTQ
Kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19, bảng điều khiển COVID-19 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ghi nhận hơn 769 triệu trường hợp được xác nhận và gần 7 triệu trường hợp tử vong.
Một số loại vắc-xin đã được phát triển để chống lại COVID-19; tuy nhiên, một tỷ lệ đáng kể dân số toàn cầu vẫn chưa được tiêm phòng. Tỷ lệ đột biến cao của SARS-CoV-2 đã góp phần làm xuất hiện các chủng mới gây chết người nhiều hơn và kháng lại các loại vắc-xin thông thường, do đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các liệu pháp hiệu quả.
Liệu pháp huyết tương phục hồi là một thủ thuật sử dụng huyết tương, là chất lỏng có nguồn gốc từ máu sau khi loại bỏ các tế bào máu, của những người hiến tặng đã khỏi bệnh để điều trị cho những người có hệ thống miễn dịch bị khiếm khuyết. Cho đến nay, các kháng thể có nguồn gốc từ huyết tương đã được sử dụng để điều trị thành công bệnh cúm, vi rút Lassa, vi rút Ebola và các mầm bệnh khác.
Do sự sẵn có của huyết tương phục hồi trước khi phát triển vắc-xin, dễ sử dụng và an toàn, huyết tương phục hồi COVID-19 (CCP) đã được coi là một phương thức để điều trị các trường hợp COVID-19 nghiêm trọng kể từ khi bắt đầu đại dịch.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cấp phép sử dụng khẩn cấp cho việc sử dụng ĐCSTQ vào năm 2020. Tuy nhiên, các nghiên cứu kiểm tra hiệu quả của ĐCSTQ có liên quan đến nhiều kết quả khác nhau.
Để đạt được mục tiêu này, các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nhỏ hơn đã gợi ý rằng CCP hiệu giá cao có lợi cho bệnh nhân trong giai đoạn đầu của COVID-19. Các thử nghiệm mở rộng hơn, thường liên quan đến bệnh nhân ở giai đoạn sau của bệnh, đã phủ nhận những kết quả này và cho thấy rằng ĐCSTQ có thể gây hại ở những bệnh nhân mắc bệnh nặng.
Các nghiên cứu miễn dịch học trước đây đã làm sáng tỏ rằng khả năng gây độc tế bào phụ thuộc vào kháng thể (ADCC) có tương quan với việc giảm nguy cơ tử vong vào ngày thứ 30 của nhiễm trùng, do đó gợi ý rằng ĐCSTQ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hệ thống miễn dịch của vật chủ thông qua các chức năng của bộ lọc kết tinh mảnh (Fc-effector) . Tầm quan trọng và các cơ chế nằm dưới các quá trình trị liệu của ĐCSTQ vẫn chưa được hiểu rõ.
Về nghiên cứu
Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu sử dụng huyết thanh học hệ thống, rất nhiều kỹ thuật thí nghiệm thông lượng cao nhằm phân tích các tính năng và chức năng của kháng thể, cho một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên theo nhóm trường hợp để đánh giá vai trò của ĐCSTQ trong quá trình phát triển phản ứng miễn dịch của bệnh nhân. Các mô hình hồi quy cũng được sử dụng để ước tính Điểm nghiêm trọng lâm sàng (CSC), thước đo hiệu quả của ĐCSTQ.
Nghiên cứu bao gồm 79 bệnh nhân nhập viện tại Đại học Pennsylvania từ tháng 5 năm 2020 đến tháng 1 năm 2021 do viêm phổi nặng do COVID-19 gây ra. Bốn mươi cá nhân bao gồm nhóm trường hợp nhận được cả ĐCSTQ và chăm sóc tiêu chuẩn, trong khi 39 bệnh nhân còn lại chỉ được chăm sóc tiêu chuẩn. Tất cả những người tham gia nghiên cứu đã được sàng lọc và thử nghiệm một, ba, tám, 15, 29 và 60 ngày sau khi bắt đầu điều trị.
Để phát hiện và định lượng kháng nguyên và phản ứng thể dịch đặc hiệu của kháng nguyên giữa các đoàn hệ nghiên cứu, một mảng hạt Luminex ghép kênh đã được sử dụng. Mảng này cho thấy mức độ liên kết kiểu mẫu, kiểu phụ và thụ thể Fc (FcR) của kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên.
Các xét nghiệm chức năng đo tế bào dòng chảy hướng ab được sử dụng để định lượng quá trình thực bào bạch cầu trung tính phụ thuộc kháng thể (ADNP), thực bào tế bào phụ thuộc kháng thể (ADCP) và lắng đọng bổ thể phụ thuộc kháng thể (ADCD).
Mô hình hồi quy logistic bốn tham số đã chuẩn hóa sự khác biệt về kết quả giữa các nhóm nghiên cứu. Các hồi quy này được xây dựng với hai đường dẫn phân tích độc lập, bao gồm các mô hình đầy đủ và mô hình không tương ứng đại diện cho các trường hợp và kiểm soát. 30 biến hàng đầu được tiết lộ bởi các mô hình hồi quy đã được sử dụng để tính toán CSC để phân loại bệnh nhân theo mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Kết quả nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 63 tuổi, 54% trong số đó là nữ. Hầu hết bệnh nhân được điều trị bằng remdesivir, một loại thuốc kháng vi-rút phổ rộng hoặc corticosteroid với tỷ lệ tương ứng là 81% và 83% trước khi điều trị nghiên cứu. Bệnh nhân được ghi danh vào nghiên cứu ở giai đoạn đầu của nhiễm trùng và trung bình là sáu ngày sau khi chẩn đoán.
Các thử nghiệm chức năng cho thấy rằng phương pháp điều trị của ĐCSTQ dẫn đến sự thay đổi khả năng miễn dịch từ phản ứng thể dịch nhắm mục tiêu tăng đột biến (S) sang phương pháp nhắm mục tiêu protein nucleocapsid (N). Những phát hiện này cho thấy tình trạng viêm cùn là do phản ứng S giảm.
Hơn nữa, phương pháp điều trị của ĐCSTQ tạo điều kiện loại bỏ nhanh chóng N-protein, là nguyên nhân gây tổn thương phổi ở bệnh nhân COVID-19 nghiêm trọng. Đáng chú ý, tác dụng chống viêm của ĐCSTQ kéo dài và tồn tại ít nhất hai tháng sau khi điều trị.
Đáng chú ý, kết quả của chúng tôi cho thấy rằng khả năng miễn dịch tập trung vào N trong bệnh COVID-19 có liên quan đến kết quả lâm sàng tốt hơn.”
Điểm CSC được cải thiện đáng kể đối với những người tham gia được điều trị bằng ĐCSTQ so với những người chỉ được chăm sóc tiêu chuẩn với điểm trung bình lần lượt là bảy và mười. Trên thực tế, điều trị ĐCSTQ làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong và bệnh tật so với chỉ chăm sóc tiêu chuẩn.
Kết hợp với kết quả mảng, những phát hiện này cho thấy rằng lợi ích chính của ĐCSTQ có thể là do sự thay đổi thụ động trong khả năng miễn dịch thông qua hoạt động chức năng của kháng thể, với các đặc tính trung hòa trực tiếp của kháng thể ĐCSTQ là kết quả thứ cấp.
Những kết quả này có tầm quan trọng đặc biệt do sự xuất hiện của Omicron và các biến thể SARS-CoV-2 khác đã khiến hầu hết các phương pháp điều trị bằng kháng thể đơn dòng thông thường trở nên vô hiệu. Do phương thức nhắm mục tiêu nhiều vị trí của chúng, các kháng thể đa dòng, bao gồm cả CCP, ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi các chủng mới.

 

Nguồn: News medical life sciences|By Hugo Francisco de Souza|Reviewed by Benedette Cuffari, M.Sc.| Aug 17 2023
Đường dẫn: Xem tại đây
Tags: covid-19

Đăng ký để nhận các thông tin mới nhất.

Chúng tôi sẽ không gửi thư rác đến bạn

Follow on Facebook
Follow on Twitter